Sáng ngày 17/10, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của Dự thảo thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường”. Tham dự Hội thảo có đại diện một số Ủy ban của Quốc hội, bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp.
Hội thảo công bố các kết quả của nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của Dự thảo thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường” nhằm cung cấp thêm thông tin về đánh giá tác động đa chiều và toàn diện hơn của đề xuất: “Bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN: 12828:2019) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB” tại Dự thảo Thuế TTĐB (sửa đổi).
Tác động tới nhiều ngành kinh tế
TS Nguyễn Minh Thảo - Trưởng ban, Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, Báo cáo của CIEM nhận diện các tác động kinh tế dựa trên cấu trúc nền kinh tế Việt Nam thông qua bảng IO cập nhật năm 2022 và các dữ liệu chính thống liên quan sẵn có. Kết quả tính toán cho thấy, khi áp thuế TTĐB 10% đối với nước giải khát (NGK) có đường thì các tác động cụ thể tới ngành NGK làm cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nước giải khát bị co hẹp sau khi tăng thuế, giá trị tăng thêm (VA) và giá trị sản xuất (GO) của nhóm ngành NGK đều giảm. Trong đó, giá trị tăng thêm giảm 0,772%, tương đương giảm 5.650 tỷ đồng.

Đồng thời, việc áp thuế TTĐB này không chỉ tác động tới ngành NGK mà còn tác động tới 24 ngành khác trong quan hệ liên ngành. Hệ quả tác động tới toàn nền kinh tế.
Tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế giảm 0,601%; tương đương 55.077 tỷ đồng. Điều này kéo theo sự sụt giảm về GDP ở mức 0,448%, tương đương giảm 42.570 tỷ đồng. Khấu hao tài sản cố định giảm ở mức -0,654% (tương đương giảm 7.767 tỷ đồng). Lợi nhuận giảm với mức -0,561% (tương đương giảm 8.773 tỷ đồng). Vì thế, nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế trực thu) sụt giảm 2.152 tỷ đồng.

Từ kết quả tính toán cho thấy tác động tới thu nhập của người lao động trong toàn nền kinh tế giảm 0,6%, tương đương giảm 34.534 tỷ đồng. Tuy nhiên, với phương án áp thuế này, kết quả phân tích bảng I-O cho thấy, năm đầu tiên áp thuế (năm 2026) ước tính nguồn thu từ thuế gián thu tăng 0,853%. Nhưng đến chu kỳ tiếp theo (chu kỳ sau 1 năm), nguồn thu từ thuế gián thu bắt đầu suy giảm với mức -0,495%/năm, tương ứng ước tính giảm khoảng 4.978 tỷ đồng/năm. Và các chu kỳ sau, nguồn thu ngân sách tiếp tục giảm.
Kết quả phân tích dựa trên cấu trúc bảng I-O cho thấy nếu áp thuế TTĐB 10% đối với mặt hàng NGK có đường sẽ tác động tiêu cực tới nền kinh tế trên nhiều khía cạnh như quy mô sản xuất, sản lượng, giá trị gia tăng, lợi nhuận, thu nhập, lao động và cả nguồn thu NSNN.

Bà Trần Thị Nhị Hà – Phó trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc áp thuế TTĐB với nước giải khát có đường tác động lớn tới người tiêu dùng, doanh nghiệp. Cần có cơ sở đánh giá khoa học, bằng chứng thuyết phục, phù hợp với điều kiện thực tiễn, kinh tế Việt Nam và sức khỏe cộng đồng.
“Có nên đánh thuế TTĐB với NGK có đường không? Có nhiều phương pháp giúp điều tiết hành vi người tiêu dùng như tuyên truyền, điều tiết dinh dưỡng, dán nhãn… vậy các phương thức này đã thực hiện như thế nào, kết quả ra sao, tác động như thế nào cũng cần được làm rõ để có cơ sở đưa ra quyết định áp dụng thuế với mặt hàng này” bà Nhị Hà chia sẻ.

Chưa nên áp dụng thuế TTĐB với NGK có đường
Có thể thấy, xét về tác động kinh tế, việc áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường dẫn tới tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Cũng như thực trạng chung của doanh nghiệp ngành đồ uống, ngành NGK là ngành dễ bị tổn thương trước các cú sốc, bao gồm cả những thay đổi về chính sách. Vì thế, quá trình soạn thảo các văn bản, chính sách tác động tới doanh nghiệp ngành NGK càng đòi hỏi phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng. Theo đó, Báo cáo này đề xuất chưa áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường.

Ông Nguyễn Văn Việt - Chủ tịch Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA) cho biết, trong bối cảnh các doanh nghiệp còn khó khăn hiện nay, để góp phần dự thảo luật được ban hành hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp, cũng như góp phần đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội và mục tiêu sức khỏe của người tiêu dùng Việt Nam, các doanh nghiệp ngành nước giải khát dựa trên các cơ sở khoa học, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế, VBA kiến nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc chưa bổ sung nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml, vào đối tượng chịu thuế TTĐB tại lần sửa đổi này.
Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Duy Hưng – Chủ tịch Ủy ban Quan hệ doanh nghiệp và pháp chế Tập đoàn Tân Hiệp Phát cho biết: Hiện nay chưa có căn cứ đánh giá tác động liên quan tới thừa cân béo phì (TCBP) đối với NGK có đường nhưng đã tác động tiêu cực rõ ràng tới doanh nghiệp. Ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch, chiến lược của doanh nghiệp đã đầu tư, đang và sẽ thực hiện trong thời gian tới. Bởi doanh nghiệp sản xuất có kế hoạch dài hạn như thuê đất, đầu tư nhà xưởng.

Bên cạnh đó, Nhóm nghiên cứu của CIEM cũng đề xuất một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội doanh nghiệp và doanh nghiệp ngành NGK.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước, CIEM đề xuất cơ quan soạn thảo cần tổ chức tham vấn rộng rãi đối với các đối tượng chịu tác động bởi chính sách; giải trình rõ ràng, minh bạch, công khai đối với các ý kiến góp ý. Đồng thời, việc ban hành mới hay sửa đổi, bổ sung các quy định, chính sách cần thực hiện đánh giá tác động toàn diện, thực chất, dựa trên cơ sở khoa học và minh chứng thuyết phục.
Để điều tiết hành vi tiêu dùng, cơ quan quản lý nhà nước có thể áp dụng đồng thời nhiều công cụ quản lý khác nhau. Trong đó, một trong những công cụ quan trọng là công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân; (iii) Cần sớm hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật (QCVN), tiêu chuẩn kỹ thuật (TCVN) đối với mặt hàng thực phẩm và đồ uống để đảm bảo chất lượng thực phẩm, đồ uống khi tiêu thụ trên thị trường.

Với Hiệp hội doanh nghiệp, CIEM cần chủ động cập nhật, phối hợp cung cấp thông tin, cơ sở khoa học tới cơ quan soạn thảo và các bên liên quan trong quá trình lấy ý kiến cho dự thảo Luật. Đồng thời các hiệp hội cũng cần hợp tác trao đổi, chia sẻ các mối quan tâm; kịp thời thể hiện quan điểm chính sách; phản ánh các vấn đề, vướng mắc, khó khăn; đề xuất các kiến nghị liên quan đến chính sách và thực thi chính sách để đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời tạo thuận lợi, an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp ngành NGK cần đầu tư, nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới có lợi cho sức khoẻ, cấu trúc lại hoạt động quản trị, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để tiết giảm chi phí.
Minh Quân