Ngày 20/9, Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam đã gửi Công văn số 140/CV-VBA tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc góp ý Dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi).
Vị trí, vai trò và những khó khăn của Ngành
Ngành đồ uống (bia, rượu, nước giải khát) là ngành kinh tế-kỹ thuật quan trọng, có truyền thống, văn hóa, lịch sử lâu đời, cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội.
Với hàng trăm nhà máy sản xuất, kinh doanh trong ngành được phân bố hầu khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước (trên 51 tỉnh, thành phố), tạo hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp trong các cơ sở nhà máy sản xuất và trong chuỗi cung ứng, dịch vụ từ các đơn vị cung cấp nguyên liệu, đóng gói, kho vận, phân phối, các ngành dịch vụ, du lịch, nhà hàng, logictics v.v. đảm bảo lưu thông trong chuỗi giá trị sản phẩm.
Ngành có vai trò kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước khoảng gần 60 ngàn tỷ đồng/năm (thuế TTĐB chiếm trên 40 ngàn tỷ đồng) và luôn đứng ở vị trí những doanh nghiệp đóng góp ngân sách nhất nhì địa phương, giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ sinh thái công nghiệp.
Ngành đồ uống luôn tuân thủ tuyệt đối và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối các quy định pháp luật có liên quan đặc biệt là các chính sách về thuế, phí. DN ngành hàng luôn ưu tiên cho các nghiên cứu, sáng kiến cho chất lượng và sự an toàn của sản phẩm mà DN chịu trách nhiệm.
Năm 2023, doanh nghiệp bia, rượu đều ghi nhận sụt giảm về sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, các DN phải tái cơ cấu, thu hẹp quy mô sản xuấtv.v. Năm 2024, toàn ngành vẫn tiếp tục đối mặt với những khó khăn thách thức chưa có dấu hiệu suy giảm.
Các doanh nghiệp ngành đồ uống tiếp tục phải đối với những khó khăn chung từ tác động từ bên ngoài và kinh tế vĩ mô, và một loạt các chính sách, dự Luật sửa đổi: Thuế Giá trị gia tăng (sửa đổi), Quảng cáo (sửa đổi), thực hiện các nghĩa vụ chính sách bắt buộc về bảo vệ môi trường từ năm 2024, chuyển đổi sang sử dụng các nguồn nguyên liệu xanh, bảo vệ môi trường, cắt giảm khí phát thải nhà kính v.v. sẽ đều tác động ảnh hưởng tới tăng chi phí đối với DN.
Lựa chọn lộ trình tăng thuế, mức tăng phù hợp, hài hòa
Việc điều chỉnh tăng thuế sẽ có tác động lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của người dân tới cả nền kinh tế do vậy cần có đánh giá tác động thật kỹ lưỡng, có cơ sở khoa học, đặt vào bối cảnh thực tế cả về lĩnh vực tài chính và an sinh xã hội, chiến lược phát triển kinh doanh của DN đã đầu tư ở Việt Nam, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp. Từ đó lựa chọn lộ trình tăng thuế phù hợp, mức tăng hợp lý, hài hòa.
Ngành đồ uống tuân thủ tốt các quy định chính sách của nhà nước, với thực trạng ngành rượu đi xuống báo động như hiện nay, Hiệp hội rất quan ngại kịch bản suy giảm này sẽ tiếp tục xảy ra đối với ngành rượu, bia, nếu các chính sách ban hành không được đánh giá kỹ, toàn hiện, có cơ sở khoa học, định lượng cụ thể.
Báo cáo đánh giá tác động của Ban soạn thảo còn đơn giản, đang thiên về định tính nhiều hơn, chưa đề cập đến những tác động đầy đủ và toàn diện. Cần đánh giá định lượng tác động tăng thuế đối với đối tượng chịu tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, đến người tiêu dùng, môi trường đầu tư, lao động, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Tăng thuế dẫn tới tăng giá sản phẩm. khảo sát tại các quốc gia khác nhau (Ấn Độ, Trung Quốc, Mexico, Sri Lanka, Kenya, Botswana, Nga, Brazil và Belarus), một tỷ lệ đáng kể số người được hỏi cho biết giá cả là lý do chính khiến họ chọn các sản phẩm đồ uống có cồn bất hợp pháp và không được ghi nhận thay vì các sản phẩm hợp pháp có thương hiệu. Sự chênh lệch lớn về chi phí giữa rượu bia hợp pháp và bất hợp pháp sẽ tăng nguy cơ hàng giả, hàng lậu trốn thuế.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo tăng giá bán rượu, bia ít nhất 10%, từ đó tăng thuế suất đối với rượu, bia năm 2026 lên 80% và tăng 100% tới năm 2030. WHO đưa ra những khuyến cáo chung cho những nước có tốc độ phát triển, điều kiện, ưu tiên các mục tiêu rất khác nhau và không cụ thể cho Việt Nam. Các đề xuất phải được căn cứ và đánh giá đúng với thực trạng ở Việt Nam, nghiên cứu tính khả thi khi thực hiện.
Hiệp hội mong muốn Ban soạn thảo tham khảo thêm các kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là bài học từ các quốc gia láng giềng có điều kiện hoàn cảnh gần với Việt Nam như Anh, Úc, Trung Quốc, Thái Lan v.v.
Trong bối cảnh các DN còn khó khăn hiện nay, để góp phần dự thảo luật được ban hành hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp, tránh gây “sốc” thị trường , cũng như góp phần đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội và mục tiêu sức khỏe của người tiêu dùng Việt Nam. Hiệp hội thay mặt các DN xin kiến nghị như sau:
1. Thời điểm hiệu lực của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) nên được thực hiện từ năm 2027.
2. Đối với sản phẩm rượu, bia xem xét giảm mức tăng thuế và giãn lộ trình tăng một cách hợp lý, tạo điều kiện để doanh nghiệp, thị trường, người tiêu dùng thích nghi với việc tăng thuế trong thời gian tới.
Đối với Bia:
- Từ 1/1/2027 – 31/12/2028: 70%
- Từ 1/1/2029- 31/12/2030: 75%
- Từ 1/1/2031: 80%
Đối với Rượu từ 20 độ trở lên:
- Từ 1/1/2027 – 31/12/2028: 70%
- Từ 1/1/2029- 31/12/2030: 75%
- Từ 1/1/2031: 80%
Đối với Rượu dưới 20 độ:
- Từ 1/1/2027 – 31/12/2028: 40%
- Từ 1/1/2029- 31/12/2030: 45%
- Từ 1/1/2031: 50%
3. Không bổ sung nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml, vào đối tượng chịu thuế TTĐB vì:
Đề xuất này không phản ánh đầy đủ và chính xác các thông tin, khuyến nghị của WHO và Bộ Y tế liên quan đến thừa cân béo phì và các bệnh không lây nhiễm, trong khi lại tạo ra một chính sách mang tính phân biệt đối xử, không hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Việc áp thuế TTĐB lên nước giải khát (“NGK”) có đường có thực sự khả thi trong việc đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ thừa cân béo phì không? Hiện nay còn rất nhiều tranh luận liên quan tới các cơ sở, bằng chứng khoa học.
Việc áp thuế TTĐB lên NGK có đường chưa chứng minh được hiệu quả trong việc tác động lên hành vi của người tiêu dùng bởi hiệu ứng thay thế khi người tiêu dùng có thể tiêu thụ các loại thực phẩm và đồ uống khác có hàm lượng đường và ca-lo cao hơn NGK nhưng lại được sản xuất thủ công là phân khúc khó khả thi để thu thuế và quản lý về chất lượng hàng hoá, đặc biệt là về hàm lượng đường trong sản phẩm. Khảo sát về thói quen chọn lựa nước uống của người tiêu dùng thực hiện năm 2018 của tổ chức Decision Lab cho thấy nếu áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát thì sẽ có 49% người tiêu dùng chuyển sang dùng các sản phẩm thay thế là nước uống chế biến tại chỗ có đường.
Mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam không cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước tiêu dùng NGK cao hơn nhiều so với Việt Nam không áp thuế TTĐB lên sản phẩm này còn một số nước đã áp dụng chính sách thuế TTĐB đối với đồ uống có đường nhưng không đạt được mục tiêu về sức khỏe của chính sách và phải bãi bỏ chính sách thuế sau một thời gian áp dụng.
Việc áp thuế TTĐB lên nước giải khát có đường sẽ tác động đến 24 ngành trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp hàng nghìn lao động trong các doanh nghiệp. Tác động trực tiếp tới thuế gián thu và trực thu từ đó tác động tới thu ngân sách nhà nước.
PV