Mát lành bát nước vối vườn quê
Nhà tôi có một cây vối cổ thụ bên bờ ao, thân to hơn cả cái thùng gánh nước, cao cả vài chục mét, quanh năm cành lá sum suê, tỏa bóng mát cả một khoảng vườn rộng lớn. Cây vối do nội tôi trồng từ hồi bà còn trẻ. Nội từng vẫn hay kể về xuất xứ của cây vối là do hồi còn trẻ, có một lần nội đi chợ phiên ở làng bên, thấy người ta bán lá vối tươi dùng nấu nước uống rất mát và ngon.
Chính vì muốn thuận tiện, nhất lại có lá, nụ vối uống thường xuyên nên nội đã nhờ bà chủ bán lá vối mua giùm một cây vối con để trồng trong vườn nhà. Cây vối thoạt đầu nội mang về trồng, nhánh to chỉ bằng chiếc đũa ăn cơm, cao chưa tới ba gang tay, qua năm tháng cứ lớn dần, lớn dần dưới bàn tay tưới tắm, chăm sóc của nội...
Khi tôi sinh ra, cây vối nằm mé bờ ao bên góc vườn đã rất to, cao. Nó thực sự hữu ích không chỉ với gia đình tôi mà nhiều hộ dân trong xóm cũng được hưởng lợi ké, khi họ sang nhà tôi bẻ lá vối, xin nụ vối mang về đun nước uống thỏa thích mà không phải mất tiền mua ngoài chợ. Cây vối cung cấp không những đủ cho nhu cầu của nhà tôi, của dân trong xóm, mà nhiều phiên chợ mẹ còn mang lá vối, nụ vối đi bán lấy tiền thêm thắt cho những chi tiêu trong cuộc sống gia đình. Sự tiện ích của cây vối quả là nhiều, khi ngoài việc làm bóng mát, điều hòa dưỡng khí cho môi trường sống thêm trong lành, cây còn cho lá và nụ hoa làm thức uống với tác dụng thanh nhiệt, mát lành. Vâng, từ bao đời nay, người dân quê ở hầu khắp các vùng miền trên đất nước ta đã biết tới tác dụng của lá và nụ hoa vối, vì vậy loại nước uống chế biến từ phụ phẩm của cây vối đã trở nên quá đỗi thân thuộc và không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nụ vối thường được người ta ủ kỹ, phơi khô rồi khi pha chế nước được bỏ ấm đun sôi lên, hoặc cho vào tách hãm với nước nóng như kiểu pha trà. Theo y học, đây là thứ nước uống có nhiều tác dụng như thanh nhiệt, giải độc, mát gan, và đặc biệt nó rất lành. Nếu như trà còn có thể sợ bị phun thuốc trừ sâu, thì với nước uống từ nụ vối người ta có thể yên tâm vì chúng là cực sạch, khi không có bất kỳ loại hóa chất nào lẫn ở trong đó. Với lá vối, ngoài việc bỏ nắm lá vào ấm, vào nồi đun chín uống tươi như kiểu uống lá trà xanh tươi ra, một cách chế biến thông thường khác nữa là, lá được bứt xuống, cho vào ủ chín cho tới khi lá có màu úa vàng rồi mang rửa qua nước cho sạch nhớt, bụi bẩn, sau đó đem phơi khô dưới nắng. Lá vối khô có thể dùng quanh năm, thậm chí qua năm khác vẫn không ảnh hưởng gì, miễn là chúng được phơi khô kỹ, không bị nấm mốc. Vị nước của hai loại lá vối khô và tươi tuy có khác nhau chút ít, nhưng tựu chung nó vẫn có mùi thơm đặc trưng của vối, dễ uống, mát và có màu nâu đậm đẹp mắt. Trong cuộc sống sinh hoạt của gia đình, mẹ tôi vẫn thường hãm nước uống hàng ngày bằng lá vối tươi cho tiện, chỉ đôi khi có khách khứa, hay mỗi độ nhà có việc, tết nhất thì mẹ mới nấu nước nụ vối để thết đãi khách, bởi so về giá trị thì nụ vối bán đắt giá hơn nhiều, nên mẹ muốn dành để bán lấy tiền thêm thắt lo toan cho anh chị em chúng tôi ăn học...
Tuổi thơ tôi, cũng như bao đứa trẻ cùng trang lứa nơi xóm nhỏ dấu yêu có vô vàn những kỷ niệm đáng nhớ, những hình ảnh thân thương luôn lưu giữ trong ngăn ký ức, nhưng riêng với cây vối cổ thụ thì dấu ấn của chúng tôi luôn đậm nét hơn về nó, nhất là khi cây vối bước vào trổ hoa, kết trái. Những dịp chớm hè, cây vối bước vào mùa ra nụ trổ hoa, lúc này mẹ thường sai mấy anh chị em tôi bắc thang trèo cây để bứt những chùm nụ vối mang xuống để mẹ ủ, trước khi phơi khô trữ để dùng dần, cũng như để bán. Nụ vối trổ bông đồng loạt nên hái không xuể, vì vậy mà với những chùm nụ ở cành cao, cành la, xa tầm với do không hái kịp, nên chỉ qua hôm sau là chúng nở hoa trắng ngần, với chùm râu tua tủa, tỏa mùi hương thơm ngát. Những chùm hoa vối này chỉ sau tuần lễ là kết thành quả, ấp ủ cho một mùa quả chín mọng ở phía trước...
Có lẽ, trong những năm tháng tuổi thơ tôi thì kỷ niệm đáng nhớ nhất, thích nhất, đó là lúc những chùm quả vối trên cây bước vào mùa chín đỏ. Khoảng thời gian quả vối chín là dịp giữa hè, khi đó chúng tôi cũng nghỉ hè, không phải cắp sách tới trường, vì vậy mà thời gian rảnh rỗi là tôi hay rủ mấy đứa hàng xóm sang trèo cây hái quả ăn. Quả vối xanh có vị chua chát, nhưng khi vối chín đỏ rồi thì nó thơm lắm, tỏa mùi hương mà mới chỉ ngửi thấy thôi đã ứa cả nước miếng. Đặc biệt, nó có vị chua thanh pha ngọt, ăn rất thú vị, ăn mãi mà không biết chán. Tuy vậy, hạt quả vối luôn rất chát, thậm chí đắng ngắt, nên khi ăn chúng tôi chỉ gặm hết phần cùi vỏ bên ngoài rồi nhả hạt ra, chứ không thể ăn được. Chẳng vậy mà, cứ tới lúc quả vối vào mùa chín là hầu như lúc nào ban ngày, cây vối nhà tôi cũng có lũ trẻ chơi đùa vây quanh dưới gốc. Mỗi lúc trèo cây hái quả ăn chán, bọn chúng tôi lại chơi các trò chơi dân gian rất vui vẻ, rộn rã...
Lớn lên, ra thành phố học tập và ở lại lập nghiệp, xa bố mẹ, xa quê hương nhưng trong tôi vẫn luôn dành những nhung nhớ cho hình bóng quê nhà, nơi có mảnh vườn quê rợp bóng mát, nhất là có cây vối cổ thụ đã cho tôi, cho nhiều người nguồn nước uống mát lành. Ở thành phố, tôi được thưởng thức vô vàn loại nước uống, vô vàn những loại trà hảo hạng, đắt tiền..., nhưng mỗi khi nhớ nhà tôi vẫn nao lòng thèm muốn được uống bát nước vối mẹ nấu hái từ cây vối cổ thụ của nội trồng năm xưa...
Nguyễn Thị Loan (Học viện Thanh thiếu niên)