Thực trạng và các yếu tố nguy cơ của thừa cân, béo phì ở một số tỉnh thành Việt Nam
- Thực trạng thừa cân, béo phì của học sinh
- Nguyên nhân dẫn tới thừa cân béo phì và thói quen sử dụng thực phẩm, vận động của học sinh
- Khuyến nghị
PGS.TS Nguyễn Thị Lâm - nguyên Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng
Yếu tố liên quan tới thừa cân béo phì ở học sinh
Do vận động quá ít: (PGS.TS.BS Tăng Kim Hồng - Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch)
Chỉ có 26,1% học sinh THPT tham gia vận động thể lực ít nhất 60 phút mỗi ngày; Chỉ có 29,9% học sinh THPT tham gia các lớp học thể dục hằng ngày.
Đối với học sinh THCS tại TP.HCM, lớp 6 có 30,7% HS; lớp 7 có 24,4%, lớp 8 là 30,9% và lớp 9 là 34,9% học sinh không vận động.
Tỷ lệ trẻ em 6 - 11 tuổi đạt mức khuyến nghị về hoạt động thể lực theo giới, khu vực
***: Sự khác biệt giữa thành thị - nông thôn với p<0.001
Nghiên cứu SEANUT Việt Nam, Viện Dinh dưỡng 2011
Khảo sát 459 học sinh cấp 2 các trường nội thành TP Hồ Chí Minh về yếu tố nguy cơ của TCBP: Thời gian xem TV và chơi game ≥ 3h (OR = 2,76; Cl 95% = 1,44 - 5,29).
Khó tiếp cận với các trung tâm tập luyện thể thao (OR = 3,77; Cl 95% = 1,67 - 8,53).
Giải trí trong tháng = thời gian ngồi tĩnh tại/ngày
Mối liên quan giữa đồ uống có đường với thừa cân, béo phì
Mối liên quan giữa đồ uống có đường với thừa cân, béo phì ở trên thế giới đang tranh luận trái chiều.
Nghiên cứu của Saiko Shikanail, Vũ Thị Hiền và Shigeru Yamamoto về tiêu thụ đường của trẻ em Việt Nam, Campuchia và Nhật Bản : Các tác giả không tìm được mối liên quan giữa đường tiêu thụ và béo phì ở trẻ em ở cả 3 vùng nêu trên.
Tần suất và thói quen tiêu thụ thực phẩm của học sinh (nguồn: VDD 2019)
Một số kết quả của khảo sát
Nhóm học sinh tiểu học TC-BP tiêu thụ chất béo (≥3 lần/tuần) có xu hướng cao hơn nhóm HS không TC-BP (78,3 % với 75,1%).
Nhóm học sinh thành thị có tỷ lệ TC-BP cao hơn nhóm học sinh nông thôn (41,9% với 17,8%) nhưng lại có tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt (≥3
lần/tuần) thấp hơn (lần lượt là 16,1,% và 21,6%).
So với nước ngọt (21,6% ở khu vực nông thôn và 16,1% ở khu vực thành thị), tỷ lệ trẻ em tiêu thụ các sản phẩm có đường khác (bánh kẹo, kem chè …) còn cao hơn rất nhiều chiếm 51,1% ở khu vực thành thị và 56,4% ở khu vực nông thôn.
Kết luận
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến TCBP, bao gồm: Thời gian ngồi tĩnh tại nhiều, ít vận động, sử dụng các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đồ ăn nhanh, các thực phẩm có chứa đường trên đường phố làm tăng nguy cơ TCBP.
Khẩu phần ăn của học sinh tiểu học, THCS và THPT chưa đạt so với NCKN về năng lượng, về canxi, sắt, kẽm, vitamin A, vitamin nhóm B, vitamin C.
Chưa có nhiều nghiên cứu tìm thấy mối liên quan duy nhất của TCBP với đồ uống có đường.
Khuyến nghị
1. Tăng cường truyền thông giáo dục tại nhà trường về dinh dưỡng cân đối, hợp lý
phòng chống thừa cân béo phì: Giảm tiêu thụ các thực phẩm có hàm lượng calorie cao; Sử dụng hợp lý nguồn thực phẩm giàu chất đạm, kiểm soát chế độ ăn không dư thừa; Kiểm soát cân nặng, tăng cường hoạt động thể lực; Giảm thời gian hoạt động tĩnh tại cho trẻ em cả ở trường và ở nhà.
2. Cần có nghiên cứu khách quan lại các yếu tố nguy cơ liên quan tới TCBP ở học sinh như: hoạt động thể lực, khẩu phần ăn, sử dụng đồ ăn nhanh, thời gian ngủ...
3. Chế độ ăn cần tăng cường sử dụng rau quả, chất xơ, sử dụng các thực phẩm giàu vi chất dinh dưỡng hoặc thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng để nâng cao chất lượng bữa ăn.