Tình người, tình đất sông Vàm
Giữa trưa hè hiu hiu gió thổi, từ hiên nhà ông Tư hàng xóm văng vẳng vang lên những giai điệu ngọt ngào bài tân cổ “Dòng sông quê em” (Thơ Hoài Vũ, nhạc Trương Quang Lục, tân cổ Huyền Nhung) làm tôi tự hào về lịch sử đấu tranh gìn giữ non sông đất nước của quân và dân Long An đôi bờ sông Vàm Cỏ Đông.
“Ở tận sông Hồng em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ Đông!”
Đây là ca khúc rất đỗi quen thuộc mà mỗi người dân Long An thế hệ 6x, 7x, 8x đều nằm lòng và ai cũng đã hơn một lần trổ tài mình là “tài tử miệt vườn” cất tiếng hát góp vui văn nghệ trong các buổi đờn ca tài tử, các dịp cưới hỏi, giỗ chạp, lễ Tết – một nét đẹp trong văn hóa của người miền tây sông nước.
Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ vùng đồng bằng trũng thấp thuộc nước bạn Campuchia, chảy vào Việt Nam qua tỉnh Tây Ninh, chảy vào địa phận tỉnh Long An qua các huyện Đức Huệ, Đức Hòa, Bến Lức và Cần Đước với lý trình 86km, kết hợp với sông Vàm Cỏ Tây tạo nên sông Vàm Cỏ đổ vào sông Soài Rạp và đổ ra Biển Đông.
Xuôi ngược dòng sông Vàm Cỏ Đông, ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp nơi đây. Những đám lục bình tím ngắt ngã mình theo thuyền rẽ sóng lên xuống theo từng làn nước. Những tấm lưới, cây dầm, những hàng dừa nước nép mình dưới những nhà dân hai bên bờ sông đã tạo nên những trang sử hào hùng đi vào thơ ca:
“Đây con sông như dòng lịch sử
Sáng ngời lên từ thuở cha ông
Đã bao phen dòng sông cảm tử
Vùi đáy sông xác giặc tanh nồng”.
Với mạng lưới sông ngòi kênh rạch chằng chịt, những hàng dừa nước xanh xanh tàu lá phây phẩy ngã mình soi bóng trong nước như những tấm lá chắn cho các anh du kích “lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông”. Nơi đây có biết bao con người đã không tiếc tuổi xuân, đã ngã xuống vì màu xanh sông Vàm Cỏ Đông. Trải qua mấy mươi năm kháng chiến trường kỳ, dòng sông Vàm Cỏ Đông đoạn chảy qua huyện Đức Huệ - Đức Hòa đã cùng dân đánh giặc. Dòng sông như người mẹ hiền bao bọc chở che qua bao năm tháng dưới đạn bom của kẻ thù. Với biết bao chiến công thầm lặng, dòng sông cùng nhân dân nơi đây vẫn “chung thủy đợi chờ”, vẫn vang mãi khúc hát với bài ca “ra trận”, trên dưới một lòng “trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”.
Nếu ai đã một lần đến vùng sông nước phương nam, xuôi thuyền dạo trên sông Vàm Cỏ Đông hẳn sẽ không thể nào quên tiếng hò của người lữ khách qua sông. Với những chiếc thuyền 3 lá nhỏ, chiếc áo bà ba quen thuộc cùng chiếc khăn rằn vắt vai, tất cả như ánh lên nụ cười rạng rỡ của người phụ nữ Nam Bộ dưới chiếc nón lá đặc trưng qua bao hải trình. Nhìn những cánh lục bình tim tím lững lờ xuôi dòng nước chảy hòa cùng âm thanh tiếng chèo khua nhịp, người lữ khách đưa mắt nhìn ngắm xa xa đôi bờ sông Vàm Cỏ Đông là những ruộng lúa xanh ngút ngàn được bồi đắp từ những hạt nặng phù sa.
Trải qua nhiều năm tháng thăng trầm biến động của thời gian, cùng những kiến tạo trong thời kỳ đổi mới xây dựng đất nước, sông Vàm Cỏ đã có nhiều đổi thay đáng kể. Các cây cầu đã mọc lên nhiều. Các bến sông thơ, các bến phà cũ đã không còn nữa. Hai bên bờ sông giờ đã mọc lên các tiểu khu công nghiệp, các xí nghiệp mía đường, phân bón, các cảng cá mọc lên ngay mép nước làm nơi trú ngụ cho các tàu thuyền cập bến. Dù làng mạc, phố xá, thuyền xe tấp nập nhưng dòng sông Vàm cỏ Đông vẫn giữ trong mình những năm tháng huyền thoại mà cư dân hai bên bờ sông vẫn kể lại cho hậu thế nhân sinh nghe lại lịch sử hào hùng của thế hệ cha anh.
Thời gian là minh chứng, sông Vàm Cỏ Đông đã trải qua các cuộc đấu tranh, giữ gìn, xây dựng đất nước. Tình người, tình đất sông Vàm sẽ mãi là những hình ảnh đẹp vùng sông nước cùng góp phần làm nên bản sắc văn hóa phương nam.
Thi Hoàng Khiêm